TS. Võ Trí Thành: Chúng ta nới, nhưng không quá buông lỏng, không nên để đồng tiền quá dễ dãi
TS. Võ Trí Thành cho rằng mục tiêu tăng trưởng kinh tế Việt Nam ở mức 6% là vô cùng khó khăn và phụ thuộc vào “hai cơn gió ngược từ bên ngoài” và “hai vòng gió xoáy trong nội tại”.
Tại Hội thảo “Tăng khả năng hấp thụ vốn cho doanh nghiệp” sáng 25/7, TS. Võ Trí Thành – Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược thương hiệu và cạnh tranh cho biết năm 2020 – 2021, tăng trưởng kinh tế Việt Nam dường như không đồng điệu so với kinh tế thế giới và chủ yếu rơi vào nhóm chính sách: chính sách giãn cách xã hội, phòng tránh dịch bệnh của mỗi quốc gia và quy mô, cách thực hiện gói hỗ trợ chưa từng có trên thế giới. Do đó, tăng trưởng của mỗi quốc gia trong thời kỳ này đều khác nhau.
Theo ông Thành, năm 2020, kinh tế Việt Nam như một “ngôi sao sáng” mặc dù tăng trưởng còn thấp. Sang năm 2021, tăng trưởng kinh tế như một “ngôi sao đang rơi” trong bối cảnh kinh tế thế giới phục hồi mạnh.
Năm 2022, trái ngược với nền kinh tế thế giới suy giảm, nền kinh tế Việt Nam phục hồi rất tốt. Tuy nhiên, con số 8% che đậy sự khó khăn của nền kinh tế Việt Nam từ giữa quý 3/2022. “Nên nếu nói đúng, từ quý 3/2022 đến nay, thậm chí là tới 2024, kinh tế Việt Nam có thể khá đồng điệu với tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới”, ông Thành nhận định.
Với những dự báo gần đây nhất, cùng với chữ “suy giảm” thì góc nhìn tháng 6 – 7 đối với kinh tế trong nước và kinh tế thế giới, mức nhích lên của năm 2024 đều là cái nhìn “ít lạc quan hơn”. Đặc biệt với tăng trưởng kinh tế Việt Nam, phần lớn các dự báo trong 1 tháng gần đây đều trong khoảng dưới 5% và trên dưới 5,5%. Vậy nên, mục tiêu tăng trưởng kinh tế Việt Nam ở mức 6% là vô cùng khó khăn.
2 cơn gió ngược bên ngoài
Theo TS. Võ Trí Thành, có 2 “cơn gió ngược” cùng những bất định, rủi ro từ bên ngoài với kinh tế Việt Nam. “Những cơn gió này sẽ tăng lên hay giảm nhiệt, đang là cấp 6 cấp 7 hay cấp 3 cấp 4 vẫn là giấu hỏi do kinh tế thế giới, đặc biệt là các đối tác lớn của Việt Nam chưa rõ suy thoái hay không”.
“Cơn gió ngược” thứ nhất đến từ sự suy giảm kinh tế thế giới, các đối tác thương mại, đầu tư chính của Việt Nam và mức độ phục hồi của nền kinh tế Trung Quốc.
“Cơn gió ngược” thứ 2 là các điều kiện tài chính tiền tệ chưa bao giờ “ngặt nghèo” như hiện nay: lãi suất, sức ép lên tỷ giá, lạm phát. Song tin tốt lành, theo vị chuyên gia, là “cơn gió ngược” này có thể sẽ dịu đi do lạm phát đã qua đỉnh và giảm nhanh hơn rất nhiều so với kỳ vọng (như lạm phát ở Mỹ). Các chính sách tiền tệ dần dần sẽ nhẹ nhàng hơn. Đặc biệt, ngày 26/7 có thể là lần tăng lãi suất cuối cùng trước khi giữ nguyên hoặc giảm của Cục Dự trữ Liên bang (Fed) và tăng tối đa 0,25%. “Cơn gió này có thể đang cấp 7 cấp 8, nhưng sẽ giảm xuống cấp 3 cấp 4”, ông nhận định.
Tuy nhiên, lạm phát vẫn là dấu hỏi lớn, đặc biệt là giá hàng hoá cơ bản. Gần đây, giá hàng hóa, lương thực, gạo… tăng mạnh, nguyên nhân do căng thẳng Ukraine và Nga và một số nước tăng cường an ninh lương thực…
Đằng sau 2 “cơn gió ngược” này, chúng ta sẽ còn phải sống với một giai đoạn còn dài những rủi ro, bất định khác như biến đổi khí hậu, xung đột địa chính trị, cạnh tranh giữa các nước lớn, nợ tài chính…
2 vòng gió xoáy nội tại
“Bên ngoài có 2 cơn gió ngược thì bên trong nền kinh tế Việt Nam còn có 2 vòng gió xoáy”, TS. Võ Trí Thành nói thêm.
“Vòng gió xoáy nặng nhất là từ cuối năm ngoái, chúng ta vấp phải vấn đề thanh khoản, vấn đề về bảng cân đối tài sản của nhiều ngân hàng, áp lực lãi suất, tỷ giá. Ngoài ra còn có vấn đề thị trường chứng khoán và trái phiếu doanh nghiệp, lĩnh vực bất động sản. Bên cạnh đó cũng có một số vấn đề liên quan đến cách xử lý dẫn đến niềm tin thị trường sụt giảm”, ông Thành cho biết.
Bằng nỗ lực và còn có sự may mắn, hiện nay, vấn đề tài chính tiền tệ, thanh khoản cơ bản được cải thiện và khá dồi dào, thậm chí lãi suất trên thị trường liên ngân hàng có những lúc giảm đến mức không thể giảm được nữa, gần như bằng 0. Áp lực lãi suất, tỷ giá, lạm phát đã giảm đi rất nhiều. Tuy nhiên, thị trường bất động sản và trái phiếu doanh nghiệp mặc dù đã có những giải pháp tháo gỡ nhưng kết quả ghi nhận còn hạn chế và có lẽ sẽ phục hồi tốt hơn giai đoạn đầu năm 2024.
“Vòng gió xoáy” thứ 2 là kinh tế thực, từ quý IV/2022, kinh tế thực giảm sút rõ rệt nhất qua xuất khẩu. Trong suốt quá trình cải cách đổi mới từ những năm 1990 trở lại đây, chưa bao giờ ghi nhận mức giảm về xuất khẩu thương mại như nửa đầu năm 2023. Đây là hiện tượng rất đáng suy nghĩ trong thời điểm này, cần nhìn nhận trong trung và dài hạn khi quy mô xuất khấu trên GDP rất lớn. Bán lẻ và đầu tư công ghi nhận tăng trưởng nhưng tốc độ tăng trưởng đã có dấu hiệu giảm sút, đề ra một thách thức mới.
Nới lỏng chính sách nhưng không để đồng tiền quá dễ dãi
Theo vị chuyên gia, để thực hiện được mục tiêu GDP cả năm đạt 6% không đơn giản nhưng chúng ta vẫn có thể kỳ vọng vào tình hình thế giới và nỗ lực khắc phục từ bên trong. Chúng ta không thể thay đổi bên ngoài, chỉ có thể thích ứng, cơn gió ngược nhẹ đi thì sẽ dễ hơn.
Ngoài hy vọng vào tình hình thế giới, chúng ta cần nỗ lực khắc phục từ bên trong, đặc biệt là các chính sách mà Chính phủ đang đặt ra, cố gắng thực hiện như: Kích cầu tiêu dùng, kích cầu tiêu dùng, đầu tư công, thu hút FDI… Ông cũng kỳ vọng xuất khẩu sẽ bớt khó khăn hơn.
Về vấn đề hấp thụ vốn cho doanh nghiệp, có nhiều yếu tố ảnh hưởng, trong đó có lãi suất. Nếu lãi suất quá cao, doanh nghiệp không thể vay mượn. Nhưng lãi suất không phải “liều thuốc vạn năng”. Chúng ta cần khắc phục nền kinh tế tổng thể, cùng với yếu tố bên ngoài thuận lợi để doanh nghiệp có cơ hội tiếp xúc, kết nối thị trường, tăng cơ hội kinh doanh bởi “nước nổi thì bèo nổi”. Chúng ta nới, nhưng không quá buông lỏng, không nên để đồng tiền quá dễ dãi!.